PHẠM TIẾN DUẬT – THI SĨ CỦA TRƯỜNG SƠN
Phạm Tiến Duật từng bộc bạch: “Tôi gắn bó máu thịt với Trường Sơn và có thể nói Trường Sơn đã đẻ ra nhà thơ Phạm Tiến Duật. Trước đây, bây giờ và sau này nếu tôi viết được chút gì neo lại trong lòng bạn đọc chính là nhờ những năm tháng ở Trường Sơn”.
Tham gia chiến đấu trong tư cách một phóng viên mặt trận, là người chứng kiến sự ác liệt, hy sinh, nỗi đau thể xác và tinh thần của những người lính trong những năm tháng chiến tranh gian khổ và ác liệt, Phạm Tiến Duật vừa là người ở trong cuộc, vừa là người ở ngoài cuộc chiến tranh chống Mỹ. Phần ở trong, đã cho ông những tư liệu và kinh nghiệm của đời sống thực nơi chiến trường. Phần ở ngoài, cho ông cái bồng bềnh, mơ mộng và lãng mạng của một thi sĩ trí thức. Cả hai đã tạo cho ông có những giây phút thăng hoa trong các bài thơ mà ông đã viết trong những năm tháng đó. Thơ ông mang hơi thở của cả một thời đại nhưng bằng một khí phách ngang tàng, chất bụi bặm và kiêu bạc của người lính thời chống Mỹ. Thơ ông có sức mạnh của cả một binh đoàn trùng trùng ra trận.
Quãng đời ở Trường Sơn là quãng đời đẹp nhất của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Ông đã từng nói rằng, việc ông có mặt trên tuyến đường Trường Sơn máu lửa, cuốn vào cuộc chiến ác liệt của quân và dân ta là một cuộc phiêu bạt lớn của số phận. Chỉ khi ở đây, ông mới thấu hiểu và ghi nhận được vẻ đẹp và sức mạnh của thời đại mình qua hình ảnh rất cụ thể của người chiến sĩ lái xe, cô thanh niên xung phong, người tư lệnh, người mẹ Pa Cô, Vân Kiều… Trong chiến tranh chống Mỹ, Trường Sơn là tựu trung của mọi tựu trung. Trường Sơn đã cho Phạm Tiến Duật một kho báu. Ngược lại Phạm Tiến Duật đã làm sáng lên Đường Trường Sơn. Mỗi chiến sĩ Trường Sơn, rộng hơn, cả dân tộc thời ấy đều soi thấy mình trong câu thơ của ông.
Thơ ông là cả một Trường Sơn thu nhỏ với những anh bộ đội lái xe quả cảm và vui tính:
“Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”;
những chiến sĩ công binh mở đường quả cảm:
“Những đồng chí công binh lầm lì
Mùi bộc phá trộn vào trong tiếng hát
Trên áo giáp lấm đầy đất cát
Lộp độp cơn mưa bi sắt đuối tầm”
những cô gái thanh niên xung phong:
“Ngày em phá nhiều bom nổ chậm
Đêm nằm mơ nói mớ vang nhà”
nhưng vô cùng tinh nghịch, vô cùng lãng mạn và giàu tính nữ:
“Khăn xanh, khăn xanh phơi đầy nắng sớm
Sách giấy mở tung trắng cả rừng chiều”.
Phạm Tiến Duật đã nói thay cả một thế hệ. Nói thay những người lính lái xe và các cô thanh niên xung phong. Nói thay cho những niềm vui, hy vọng lẫn những gian lao, khổ hạnh nơi chiến trường… Và đặc biệt nhất, bài thơ “Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây” được Phạm Tiến Duật sáng tác cuối năm 1969, là bài thơ đã luôn có mặt trong túi áo của mỗi người lính trên chiến trường. Khi bài thơ được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc thì chất thơ, chất nhạc quyện chặt với nhau, nâng cánh cho nhau vang vọng khắp các chiến trường, thôi thúc hàng triệu trái tim xông pha nơi tiền tuyến, giết giặc lập công:
Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây
Khép lại những năm tháng lửa đạn đã qua cũng như khép lại một cánh chim của núi rừng Trường Sơn đã mỏi, Phạm Tiến Duật đãđặt dấu chấm rất đẹp cho cuộc đời mình. Núi rừng Trường Sơn sẽ nhắc mãi đến tên ông và bao nhiêu đồng đội. Thơ ca của ông mãi là những trang vàng chói lọi cho thế hệ trẻ Việt Nam.